Bảo tồn di sản văn hoá- cốt lõi là ở văn hoá di sản
|
Chùa Cầu (Hội An)
|
Mới đây, vào ngày 17 tháng 4, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận về dự án luật sửa đổi bổ sung một số điều luật di sản văn hoá.
Theo dự thảo, khu vực I là vùng có các yếu tố gốc cấu thành di tích “phải được bảo vệ nghiêm ngặt” trong Luật di sản 2001 quy định “phải được bảo vệ nguyên trạng”. Nhiều ý kiến tranh cãi giữa “nghiêm ngặt” và “nguyên trạng”.
Ý kiến cho rằng dùng cụm từ “bảo vệ nghiêm ngặt” vừa chính xác hơn lại bao hàm ý nghĩa ứng xử trong bảo tồn, tu bổ di tích. Vì trong thực tế, đa số các di tích quý giá có kết cấu gỗ, gạch, ngói đều bị huỷ hoại theo thời gian, nếu hiểu quy định “bảo vệ nguyên trạng” là không được thay đổi, nhiều công trình xuống cấp không được trùng tu kịp thời đến một lúc nào đó sẽ bị sụp đổ. Sự cố sập nhà cổ ở Hội An vào năm 2003 là một minh chứng. Hiện tại ở Hội An, vẫn còn khoảng trên 20 di tích có nguy cơ sụp đổ trong mùa mưa bão. Một số ý kiến khác tỏ ra lo ngại nếu dùng cụm từ “bảo vệ nghiêm ngặt” các “yếu tố gốc” (thay vì “nguyên gốc” trong Luật di sản 2001), vì với một số công trình kiến trúc bằng đá, nếu không bảo vệ nguyên trạng, chú ý yếu tố nguyên gốc, công trình sẽ không còn ý nghĩa về di sản.
Điển hình như vụ việc xảy ra gần đây nhất đã gây sự bất bình cho dư luận xã hội: Ngọn tháp đá cổ Tôn Đức ở chùa Bút Tháp (Thuận Thành - Bắc Ninh), một công trình bằng đá có giá trị nghệ thuật đặc sắc được khởi công xây dựng từ năm 1660 đã bị dỡ tung, đá vứt ngổn ngang dưới nền, khối kiến trúc cổ có khắc chữ Hán bị dùng làm vật kê chân cột quảng cáo.
Như vậy, cả “bảo vệ nguyên trạng” và “bảo vệ nghiêm ngặt” đều có lý do để tồn tại. Từ đây, một vấn đề cốt lõi được đặt ra, điều quan trọng trong thực hiện quy định của luật là ở Văn hoá di sản. Ý kiến của ông Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Uỷ viên Hội đồng Di sản văn hoá quốc gia rất đáng được suy ngẫm: “Điều quan trọng nhất là chúng ta cần tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm và sự tích luỹ ấy phải trở thành hệ thống tri thức, cần được chuẩn hoá, đồng thời phải chia sẻ với nhân dân”. Các chuyên gia lịch sử, những đơn vị, cá nhân chịu trách nhiệm trong trùng tu, tôn tạo di tích phải là những người am hiểu sâu về lịch sử, văn hoá đồng thời nhạy cảm, tinh tế với đời sống tinh thần, văn hoá của thời đại, của nhân dân. Chỉ có như thế, công tác trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử mới thỏa mãn được lòng mong mỏi của nhân dân và cao hơn nữa là không hổ thẹn, không có tội với lịch sử. |