Đến gần cổng nhà thầy, tôi bước chậm lại để cho Trọng đi trước nhưng Trọng lại có ý nhường tôi. Hai đứa dùng dằng đẩy nhau, cổ nhiên là rất khẽ. Rồi Trọng thì thầm vào tai tôi. Tôi nghe không rõ nhưng thừa biết là Trọng đang nói gì nên càng tìm cách để Trọng đi trước. Vốn tính nhút nhát, hễ có việc gì đi đâu là ít khi tôi đi một mình và nếu có người đi cùng là thế nào cũng kiếm cớ lùi lại. Còn Trọng trông hơi bệ vệ đấy nhưng cũng chẳng can đảm gì hơn. Cuối cùng thoả thuận đi sóng đôi, tức là đi hàng ngang, không đứa nào trước đứa nào sau.
- Thế đằng ấy có biết thầydặn đến làm gì không? tôi hỏi.
Không Trọng trả lời - nhưng chắc là quan trọng nên tớ sợ...
Tôi cũng vậy, hai chân cứ níu lại, nhưng kia...
- Hai anh vào đây! thầy đã hiện ra trước mắt chúng tôi dưới ánh điện không lấy gì làm sáng nhưng đủ nhận được cái vóc dáng thấp nhỏ. da trắng và kính cũng trắng.
Thầy nhìn chúng tôi rồi chỉ vào ghế, nét mặt tươi cười hiền hậu nhưng vẫn toát lên vẻ nghiêm trọng mực thước. Chúng tôi lễ phép ngồi xuống.
- Nghe nói các anh hết tiền mua gạo rồi phải không ? Thầy hỏi
Tôi nhìn Trọng, Trọng cũng nhìn tôi. Vừa cảm động vừa bối rối. Mà sao thầy lại biết? Tôi tự hỏi rồi đưa mắt sang Trọng khi cậu ta vẫn đang nhìn xuống đôi chân đất của mình. Tôi cũng vậy, đã mấy hôm guốc bị đứt quai chưa mua được đinh đóng lại. Thì làm gì có tiền, tiền mua gạo cũng đã gần hết...
Thế là tuy bụng vẫn run, miệng lại bật ra thành tiếng
- Thưa vâng!
Thầy gật đầu đi vào phía trong, liền sau đó, cô giáo tay sách chiếc bao, bước đến cạnh chúng tôi nhẹ nhàng nói:
- Thầy có tí gạo biếu các anh...
Tôi sững sờ đứng im. Trọng giơ tay đỡ lấy chiếc bao. Đoạn ra về, miệng lí nhí chào.
Mãi đến khi gạo được đổ gọn gàng vào cái hòm gỗ, hai đứa mới sục nhớ là không cảm ơn. Vừa hôm sau, thêm một việc bất ngờ nữa đến với tôi, vâng riêng tôi: Anh Hà Vǎn Vui thay mặt lớp đệ tứ (còn Trọng mới học lớp đệ ngũ) đem đến giúp một số tiền do các bạn góp lại.
Tôi liền đi mua một chiếc nồi đất thổi cơm bằng gạo của Thầy Dần cho. chẳng là mấy hôm trước, lúc cơm sôi tôi cho đũa vào nguấy bỗng nồi nứt tung, gạo đổ cả xuống bếp tro. Loay hoay không biết làm thế nò đành ra chợ mua khoai lang luộc. Không rõ tại khoai cháy hay túi chật mà khoai rời ra. Có người nom thấy bảo nhưng xấu hổ không quay lại nhặt. Nói thêm về hôm anh Vui đem tiền đến là lúc tôi và Trọng sống trong gian nhà mà thực chất là gian lều lụp xụp, của một người đánh xe ngựa sau Chợ Lớn cho ở nhờ. Khi về anh Vui có kể rằng việc trợ giúp này được thực hiện là do gợi ý của thầy Dàn.
Vậy là giữa trǎm ngàn học sinh với bao nhiêu gương mặt giỏi đang đặc sắc mà thầy vẫn lưu ý đến tôi, đứa học trò nhà quê gày gò và nhút nhát. Đúng thế cách ấy một nǎm tôi đã được thầy xếp vào ở trong quán trọhọc sinh tại 19K0 chỗ tiếp giáp giữa đường vào phố Đông thị với đường ga xe lửa Hải Dương.
Cùng ở với tôi có anh Lý quê Kim Thành sau đổi là Bí, có thời gian làm cán bộ tổ chức sở giáo dục Hải Hưng, anh Chính quê Cẩm Giàng. Hai anh đều học lớp dưới. Riêng anh Phách học trên tôi một lớp nhưng gần cuối nǎm, mới đến ở ít ngày.
Chúng tôi tự nấu cơm lấy, dụng cụ dùng cho sinh hoạt thầy Dần nhờ người mua sắm rất đầy đủ. Kể cả khoản nước ǎn, trong khi xung quanh khan hiếm thì qúan trọ chúng tôi liên tục có. Nguyên nhân do mỗi tuần, một lần thầy Dần nhờ bên công chính chở đến cho một xe nước. Sau khi hai cái phuy và các thau chậu của chúng tôi tràn trề là lập tức các xô, thùng từ ba bốn bên tha hồ mà ghé vào hứng nước một cách thoải mái và tự do. Thế nhưng đôi khi học sinh quán trọ cũng được các cô tấm nhã ý "trả ơn", khi thì vài mớ rau muống, khi dǎm bó rau bí với những bông hoa vàng dịu.
Nǎm sau tôi lên lớp đệ tứ. Đó là nǎm cuối cùng tôi học ở phổ thông, một nǎm học chịu đựng và bươn trải quyết liệt để hoàn thành bằng được chương trình làm vốn bước vào cuộc sống hoàn toàn tự lập. Thời kỳ này trường Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ có một lớp đệ tứ với trên ba chục học sinh.
Với tôi đó là nǎm học để lại nhiều dấu ấn mạnh mẽ và trở nên nỗi nhớ khôn nguôi về những gì một khi không trở lại của tình thầy, tình bạn
Cho đến buổi sáng kia, buổi sáng mùa hè nǎm 1955, giữa lúc tôi đang luyện thi với mấy đứa cháu, con người quen ở phố Bờ Sông thì thầy Dần từ phía ngoài bước tới (thì ra thầy mới thuê nhà sát đó). Tôi đứng lên chào thầy. Thầy mỉm cười nhìn tôi, và báo tin tôi đã đỗ vào sư phạm Tả Ngạn, danh sách được niêm yết ở phòng ty giáo dục. Tôi vội kết thúc buổi học và bước nhanh ra phố. Vừa lúc Phạm Bích Đào, anh bạ đệ tứ cùng thi sư phạm với tôi đạp xe qua. Tôi nhảy lên một loáng đã có mặt trước bản danh sách bấy lâu chờ đợi.
Có thể nói việc trúng tuyển vào sư phạm đã trở thành cái mốc quan trọng đánh dấu giai đoạn mới của cuộc đời tôi, giai đoạn bước vào nghề dạy học, nghề mà thầy Dần vẫn keo sơn và tận tuỵ hết mình. Tôi đi theo nghề của thầy tôi với một khát vọng cháy bỏng là cố sao làm lấy một phần, vâng một phần rất nhỏ trong cái mênh mông tình nghĩa thầy đã đem đến cho thế hệ học sinh. Được thế, thiết nghĩ cũng đã lấy làm hạnh phúc lắm rồi.
Ôi! trường Nguyễn Bỉnh Khiêm, thị xã Hải Dương với thày hiệu trưởng Nguyễn Vǎn Dần và lớp đệ tứ yêu dấu của tôi. Thắm thoát thế mà đã hơn 40 nǎm, Hơn 40 nǎm ấy tôi chưa một lần gặp lại dǎm ba bạn cũ chớ mơ đến cả lớp, cả trường. Rõ ràng học sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phải gánh chịu một thiệt thòi trống vắng không gì thoả lấp, bởi trường tồn tại trong một thời gian ngắn quá. Nhưng từ thẳm sâu cõi lòng tôi, hình ảnh nhà trường vẫn còn nguyên vẹn tinh khôi như thuở tôi còn đang đi học. Và chắc rằng tình cảm đó không phải chỉ riêng tôi mà là của tất cả những ai đã từng cắp sách đến đây. Hy vọng một ngày nào đó mà được cuộc đại đoàn viên. Xin hãy thông báo rộng khắp đến mọi học học sinh ở tất cả các khoá, và coi họ như con cùng một mẹ và hãy công bằng khi gặp gỡ chào đón họ chứ đừng như nơi kia nơi họ ít nhiều đã có xu hướng biến ngày hội thành của riêng những ai có địa vị giàu sang...
Xin hãy nghĩ về số đông - những người cho tới ngày hôm nay tuy chưa làm nên những uy nghi rạng rỡ nhưng lại đang từng giờ, từng phút vẫn đang đǎm đắm nhờ về trường xưa thầy cô...
Nguyễn Tố Hiệu