Vài kỷ niệm khó quên với thầy yêu kính của tôi:
Cố giáo sư Phạm Thiều
Nǎm
1938, tôi học nǎm thứ tư trường trung học Trương Vĩnh Ký. Thầy dạy Việt
vǎn và Hán vǎn của tôi nǎm ấy là giáo sư Phạm Thiều. Thầy Phạm Thiều nhỏ
người, mảnh mai, nhưng đôi mắt rất to và sáng. Vào dạy học thầy không
ngồi, luôn đứng trên bục và giảng bài say sưa như đọc diễn vǎn. Sức hấp
dẫn của thầy rất mạnh. Bài giảng của thầy rất hay nên luôn thu hút sự chú
ý của cả lớp. Đến nay, khi viết bài này tôi vẫn còn nhớ rõ tiếng thầy vừa
bình thơ vừa dịch nghĩa bài cổ thi Huỳnh Học ca.
Thầy rất ít bắt học trò trả bài. Nhưng
thầy lại cho học trò soạn trước một bài giảng theo đề tài mình lựa, rồi
lên bục thuyết minh trong 40 phút. Thời gian còn lại học sinh đặt câu hỏi,
thầy sẽ phê bình. Các bạn cùng lớp với phần đông e ngại, nhút nhát nên ít
ai dám tình nguyện lên nói về âm nhạc truyền thống Việt Nam. Một phần tôi
rất thích nhạc, vì tôi sinh trong gia đình hai bên nội, ngoại đều thích
nhạc. Tội lại có người cậu là ông Nguyễn Tri Khương dạy cho tôi biết lịch
sử của mấy cây đàn chính, giảng cho tôi biết các hơi, các điệu trong nhạc
tài tử miền Nam.
Hôm được "đǎng đàn", tôi rất
chững chạc, không bị khớp, nói nǎng mạch lạc, lại có thể tự mình minh hoạ,
dứt lời cả lớp vỗ tay hoan ngênh nhiệt liệt. Thầy Phạm Thiều không ngớt lời
khen về nội dung và hình thức. Thầy nói: "Tôi cho 19 điểm trên 20. Còn
một điểm tôi để dành cho em, vì cho 20 trên 20, em sẽ nghĩ mình toàn thiện,
toàn mỹ, em sẽ không còn cầu tiến nữa. Thật lòng tôi cũng muốn cho 20 trên
20. Từ nay em nên tiếp tục trau dồi vǎn chương và âm nhạc. Sau này em sẽ còn
đi xa lắm.
Nghe theo lời thầy, tôi tự đặt cho mình
một câu tâm niệm: "Ngày nay, mình phải có học hoặc làm điều gì hơn
ngày hôm qua và ngày mai sẽ hơn ngày hôm nay".
Bài thuyết trình của tôi về truyền thống
Việt Nam trong lớp của giáo sư Phạm Thiều nǎm nào là bài nói chuyện đầu
tiên trong đời tôi về đề tài âm nhạc. Sau này, tôi đã đi trên bốn mươi
nước trên thế giới để thuyết trình về âm nhạc Việt Nam mà tôi không bao
giờ quên bài thuyết trình của cậu học sinh trung học Trương Vĩnh Ký trong
lớp của thầy Phạm Thiều nǎm 1938.
Khi tôi lên học ban tú tài, không còn học
trực tiếp trong lớp với thầy, nhưng thầy vẫn cho phép tôi và bạn Ngu í
Nguyễn Hữu Ngư đến thǎm thầy tại nhà riêng để nghe thầy nói chuyện vǎn
chương kim cổ. Nǎm tôi đậu tú tài toàn phần, được giải thưởng du lịch
của chính quyền địa cấp, tôi đi thǎm Campuchia (thuở ấy gọi là Cao Miên).
Biết tôi có ý định trên đường về sẽ nghé thǎm Hà Tiên, thầy Phạm Thiều
giới thiệu cho tôi người bạn của thầy là nhà thơ Đông Hồ. Nhờ vậy mà tôi
được viếng thǎm Hà Tiên thập cảnh dưới sự hướng dẫn của một nhà thơ
lớn miền Nam nước Việt. Nhờ chuyến gặp gỡ ấy tôi có được một người
"bạn vong niên" tôi quý thương và kính mến như người thầy. Và qua
nhà thơ Đông Hồ tôi biết được về Thất tiểu muội Mộng Tuyết, nhà thơ nữ
đầu đàn của nhóm Quỳnh Giao.
Từ khi ra Hà Nội học y cho đến lúc sang
Pháp, tôi không có dịp gặp thầy Phạm Thiều. Đến nǎm 1980, sau gần bốn mươi
nǎm, tôi về nước dự hội nghị về Nguyễn Trãi. Hôm tôi tham luận về đề tài
 m nhạc các nước Đông á ở thời đại Nguyễn Trãi, thầy Phạm Thiều chủ
toạ phiên họp. Tôi nói sơ lược về âm nhạc nhà Minh bên Trung Hoa, âm nhạc
Triều Tiên dưới thời vua Se Jong (Thế Tông), âm nhạc Nhật Bản dưới thời
Muromachi và âm nhạc Việt Nam dưới thời vua Lê Thái Tông. Tôi nhấn mạnh vào
những chỗ bất đồng ý kiến giữa Nguyễn Trãi, người trọng tinh thần dân tộc
và hoạn quan Lương Đǎng, người có xu hướng vọng ngoại, lấy nhạc nhà binh
làm gương mẫu. Trong phần kết luận, tôi nhận xét rằng ở thời đại đó, tức
thế kỷ XV, trong mỗi nước Đông á nảy sinh một ý chí phát triển những cá
tính của quốc nhạc, dẹp bỏ lối nhạc ngoại lai. Thí dụ: nhạc nhà Minh cũng
được chấn chỉnh sau một thời kỳ bị thay đổi dưới triều nhà Nguyên, tức
là xoá bỏ những dấu vết ảnh hưởng của Mông Cổ. Chỉ có tại Việt Nam,
Lương Đǎng lấy nhạc nhà Minh làm "khuôn vàng thước ngọc" để dựng
nhạc triều đình nhà Lê theo mô hình của nhạc nhà Minh. Trong triều đình,
Nguyễn Trãi và một số người thức giả không chập nhận. Lần lần Ty Giáo
phường trong dân gian thay thế, các đội nhạc cung đình Đường thượng chi
nhạc, Đường hạ chi nhạc bị dẹp đi, kể cả hai đội Đồng vǎn, Nhã nhạc.
Trong dân gian, ca trù bắt đầu bành chướng. Cây đàn đáy không phải như
nhiều nhạc cụ khác từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam mà được tạo ra tại
nước Việt đầu thế kỷ XV.
Sau bài tham luận của tôi, giáo sư Phạm
Thiều chủ toạ buổi họp đứng dậy và mở đầu bằng ba tiếng: "Thưa thầy
Khê". Tôi hoảng hốt, chạy lại bên thầy và nói: "Kính thưa thầy, em
không bao giờ quên rằng em là học trò của thầy, lúc nào thầy cũng vẫn là
thầy của em. Từ nǎm xưa, thầy đã khai đường mở lối, chỉ dạy em, dẫn dắt
em trên con đường sưu tập tài liệu để làm một bài thuyết trình, nên em
mới được như ngày nay. Xin thầy đừng gọi em như thế, tội nghiệp em và tổn
đức cho kẻ hậu sinh.
Vị giáo sư khả kính của tôi tươi cười
nói: "Thầy Khê hãy cho tôi niềm vui là được gọi cựu môn sinh của mình
bằng thầy. Ta có câu "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" (Ai dạy mình một
chữ, hay nửa chữ cũng có thể là thầy của mình). Huống chi sau khi nghe thầy
thuyết trình, tôi học được rất nhiều điểm. Tôi rất vui thấy rằng khi soạn
bài thuyết trình, thầy có cái nhìn rất rộng bao gồm các nước Đông á chứ
không thu hẹp trong phạm vi nước Việt Nam. Tôi còn nhớ bài thuyết trình của
thầy trong lớp học của tôi ngày trước. Tôi đã tiên đoán thầy sẽ còn tiến
xa. Hôm nay tôi rất vui mà thấy thầy tiến xa hơn tôi dự đoán".
Tôi đến ôm thầy, thưa rằng dẫu sao tôi
cũng không dám nhận tiếng thầy của thầy ban cho, xin tạ ơn thầy khen tặng.
Thầy trò ôm nhau mà không ai cầm được nước mắt...
GS.TS.Trần Vǎn Khê
|