arrow.gif (395 bytes)Cánh chim tung bay giữa vầng sáng mặt trời


hoa24.jpg (28765 bytes)Trong danh sách 25 thí sinh vòng sơ khảo cuộc thi tài nǎng biểu diễn múa Việt Nam lần thứ nhất tại Hà Nội có đến 7 người đǎng ký tác phẩm Cánh chim và mặt trời - sáng tác của cố nghệ sĩ nhân dân Thái Ly. Là người trong ban chỉ đạo xem thí sinh múa, tôi tưởng như thầy Thái Ly vẫn ngồi giữa chúng tôi mỉm cười và chỉ bảo...

Tôi vào ngành múa từ nǎm 1955, lúc tôi 14 tuổi. Tuổi thiếu nhi còn mải chơi, tôi thường ra phố Quán Sứ chơi đánh chuyền, nhảy dây với trẻ con. Lúc người ta nghỉ thì mình lại đi chơi, nên lúc vào học và tập thì nhiều buổi ngủ gật. Coi tôi như đứa em út trong nhà, thầy Thái Ly bước đến nhẹ nhàng đánh thức tôi, nhấc tay tôi khỏi thành ghế, dạy tôi những động tác mẫu, làm tôi thích thú say mê quên cả buồn ngủ. Thầy múa tỉ mỉ, tinh tế và sửa rất chi tiết, từng động tác từ ngón tay, đưa mắt cho đến nghiêng người. Từng động tác lời dạy của thầy trở thành kinh điển và bài học suốt đời cho tôi về nghệ thuật múa.

Bốn thập niên trôi qua, tôi đã trưởng thành trong nghề, được học qua nhiều thầy, cả trong nước và nước ngoài. Tôi đã được Nhà nước cho đi tu nghiệp mấy nǎm tại ấn Độ. Thế nhưng người dạy tôi nhiều nhất, có công nhất, để tôi trở thành một solist và có được thành công như hôm nay là thầy Thái Ly - người đầu tiên dạy tôi điệu múa Cánh chim và mặt trời.

Thầy nói: trước khi vào học một điệu múa, phải hiểu ý nghĩa và nội dung điệu múa đó. Điệu múa về cánh chim nhưng đầy ắp tình người, tính thiên nhiên. Chim luôn muốn tung cánh bay cao, bay xa. Con người luôn muốn vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao. Thầy dạy tôi thể hiện chi tiết cánh chim vẫy nước bằng những ngón tay, động ở ngón nào, sử dụng từng ngón để vẫy ra rồi truyền lên mu bàn tay, lên vai: thể hiện hai cánh dập dờn bằng hai tay rung lên từ trong những đốt xương, duỗi từ xương bả vai cho đến khuỷu tay, cổ tay, ngón tay cuồn cuộn như những làn sóng. Thầy Ly giải thích: khi Mặt trời lên cánh chim đã khô, vỗ cánh để bay cao...cũng như con người khi có ánh sáng chân lý dẫn đường, được tự do vươn lên. Điệu múa này thầy sáng tác cho nam giới biểu diễn, nhưng nǎm 1964, tôi chuẩn bị đi biểu diễn ở Campuchia nên được thầy dạy cho.

Bẩm sinh, tôi không có những điều kiện thuận lợi và phù hợp với múa. Chẳng hạn cổ chân hơi cứng, cho nên về sức bật, nhảy cao, duỗi cho mềm dẻo, linh hoạt còn hạn chế khó khǎn. Thầy động viên tôi phải nỗ lực khắc phục. Nhưng khắc phục thế nào? Thầy bảo cho tôi đứng và chỉ cho tôi: chống hai tay vào tường, hoặc vịn tay vào dóng, đẩy gót chân lên trên mũi chân thường xuyên hàng trǎm lần cho mềm cổ chân ra và phải rên hàng ngày. Độ dẻo lưng tôi còn kém, cần phải luyện, phải khởi động nhiều để có sức bật từ trong lưng thì mới đưa chân mình lên tầm cao được và tạo hình mới đẹp. Tôi tập rất mỏi và đau tứ chi, dễ nản, nên thầy động viên và giảng giải: "Tư thế con người bình thường cũng phải tạo nữa là múa!".

Giữa những ngày hè nóng bức, không có điện thầy vẫn đứng cạnh tôi, bày vẽ uốn nắn từng động tác, cả buổi, cả trời, ròng rã hàng tháng trời. Thầy bảo tôi phải kiên trì tập luyện để xử lý thật hợp lý các bước nhảy, các tư thế, các vòng xoay. Thầy nói, múa không phải là bê đỡ, không chỉ là di chuyển mà là máu thịt, và sao có phần hồn da diết trong nhân vật được thể hiện thành từng động tác. Cái phần hồn đó phải được thể hiện sáng và đẹp, làm cho khán giả thêm tin yêu và thiết tha với cuộc sống. Khi múa người diễn viên phải rnhư thoát xác. Có như thế tiết mục mới vào được lòng người xem.

Hàng ngày thầy luôn đến sàn tập của học sinh trước giờ. Ngoài cái quạt giấy quen thuốc, bao giờ thầy cũng mang theo món quà nhỏ. Hôm thì mấy quả muỗm, quả ô mai. Hôm thì mấy cái bánh ngọt và kẹo để bồi dưỡng cho học trò. Thời chiến tranh, bánh kẹo cuả thầy mua theo bìa phân phối, thầy dành hết cho chúng tôi.

Không những truyền cho chúng tôi lòng say mê nghề nghiệp và kỹ thuật múa mà thầy còn nêu tấm gương một nghệ sĩ gương mẫu, không có lòng đố kỵ. Bạn bè sáng tác được điệu múa hay, thầy tỏ ý thích thú và nói rằng rất tâm đắc với điệu múa đó, từ lâu ao ước sáng tác được như vậy nhưng chưa có dịp thể hiện. Ngay tôi là học trò, sau này có sáng tác được điệu múa Mùa xuân trên bản H’Mông cũng được thầy khen ngợi, chân tình chúc mừng và phấn khởi như chính thành công của thầy.

Trong đời thường, thầy hoà mình, sống bên bạn bè đồng nghiệp, học sinh. Thầy coi tôi như người em gái và mãi sau này, khi tôi có gia đình riêng, thầy vẫn coi vợ chồng tôi như người em gái. Thầy sống nhất tế nhị và tình cảm. Có người phụ nữ mỗi ngày được thầy cất công ra tận phố mua hoa về tặng. Vậy mà thầy đã dành cả cuộc đời cho nghệ thuật, không lập gia đình.

Những nǎm đất nước còn chia cắt, thầy xung phong vào chiến trường B (miền Nam). Mấy nǎm sau, trở ra, thầy lại đến thǎm những học trò đã là diễn viên Nhà hát ca múa nhạc Việt Nam. Thầy lại trực tiếp dạy tôi những điệu múa thầy mới sáng tác như: Bà mẹ miền Nam, Đôi bờ. Trông thầy ốm yếu xanh xao nhưng vẫn say sưa với nghệ thuật. Chúng tôi rủ nhau đến thǎm thầy. Như người anh với những đứa em thầy cho chúng tôi ǎn món cà chua chưng với rau cải soong sống, do chính tay thầy làm. Đó là món ǎn thầy trò chúng tôi ưa thích từ những nǎm ở mái trường múa hồi còn đi sơ tán.

Xem các diễn viên trẻ múa Cánh chim và mặt trời, mặt tôi nhoè đi trong xúc động. Trong tiếng nhạc tưng bừng rộn rã, tôi thấy thầy Thái Ly hiện ra như cánh chim tung bay giữa ánh sáng mặt trời.

NSND.Chu Thuý Quỳnh, tổng thư ký Hội nghệ sĩ múa Việt Nam kể

Nguyễn Ngọc Phan ghi