arrow.gif (395 bytes)Chút kỷ niệm với trường xưa


hoa23.jpg (37008 bytes)Khi tôi trở thành cậu học trò lớp 8, được vài ba tháng thi nhà trường phải chuyển học về đêm. Mỹ đã ném bom miền Bắc được hai nǎm. Các thành phố, thị xã , thị trấn, các khu trung tâm công nghiệp trở thành mục tiêu ném bom của máy bay Mỹ. Thị xã Thái Bình vào nǎm 1966 ấy đã có dǎm bay trận bom và trở thành mục tiêu oanh kích của tụi phi công Mỹ. Cầu Bo, nhà máy xay bị ném bom. Khu Quang trung bị bốc cháy... Ca học đêm bắt đầu từ 4 giờ chiều và kết thúc vào quãng 8 giờ 30 phút mỗi tối. Các lớp bắt đầu thữ vắng học sinh. Các bạn của tôi, con cái của các gia đình cán bộ, một số đứa quê ở Hoàng Diệu. Xa Cát đã theo mẹ đi sơ tán hoặc về theo học ở các trường huyện.

Chỉ còn lại đám học trò có gốc thị xã và các thầy cô giáo chưa biết sơ tán đi đâu trụ bám một cách lì lợm ở những cǎn nhà trên phố. Trong không gian im ắng, nhỏ bé của thị xã bất kể là ngày hay đêm luôn bất chợt bị dựng bởi những hồi kẻng báo động. Nếu là người chưa quen với sự hiểm nguy thì luôn cảm thấy ghê ghê bởi tiếng phản lực gầm rít ngay trên đầu. Điện trong thành phố phụt tắt. Và ngay sau đó là tiếng bom nổ đâu đó ở ngả bên Nam Định, Phủ Lý.. Có những đêm bom Mỹ ném vào Nam Định lửa cháy sáng cả một góc trời.

Nhưng cái sự học đêm đối với chúng tôi trở thành niềm vui thú. Từ hai, ba giờ chiều chúng tôi đã có mặt ở sân trường và đá bóng. Nhưng quyết đấu giữa lớp 8A và 8B (khoá 66-68) giữa những cậu học trò lớp với các anh chị lớp 9, lớp 10 luôn trở nên quyết liệt và đầy hứng thú...

Chao ôi!, Những buổi học đêm. Tan học về đường phố đã vằng người. Thầy và trò vừa đói vừa mệt rã rời, lủi thủi tưng toán trở về trong phố. Cái đoạn đường từ trường bǎng qua "nhà máy miến" hay ngược ta ngã tư có "vườn hoá chéo" (hình tam giác) sao mà xa thế. Hương lúa thơm và tiếng ếch nhái lùa vào ngực. Có nc nhà thơ đã viễtn bài thơ hay về "hương hoa sữa cài trên tóc em". Còn tôi và nhiều đứa bạn cho đến tận bây giờ vẫn còn khiếp đảm bởi cái mùi thơm hắc, đến cồn cào trong cơn đói bụng khi phgải bǎng qua những đoạn đường phủ đầy cây hoa sữa vào mùa trổ bông.

 

Cuối nǎm lớp 8, nhà trường đã buộc phải đi sơ tán về làng Đại Lai, sau phải sang Vĩnh Cựu, Thắng Gia.

Chúng tôi được học trong những nhà tre lá nằm nửa chìm nửa nổi trên mặt đất, có tường đất nền bao quanh. Các cửa ra vào đều có giao thông hào dẫn tới những hầm tre chữ A. sau này khi đã trở thành một người lính đánh nhau với tụi Mỹ nguỵ ở chiến trường Trị- Thiên - Huế, chịu hàng trǎm trận bom pháo, nhớ lại những cǎn hầm kiểu chữ A thuở còn đi học, tôi bật cười và hiểu rằng đó là đồ chơi của bom đạn. Hầm nào chịu nổi khi những trái bom hàng tạ, hàng tấn, đạn pháo 105, pháo 155,175 ném trúng đội hình? Trò đùa của chiến tranh bao giờ cung có may rủi.

Nhưng điều này là có thật, những luỹ tre xanh bao quanh làng Đại Lai, Vĩnh Gia, Thắng Cựu... đã trở thành cái áp giáp kiên cố bảo vệ cho chúng tôi ba nǎm học cuối cấp của tôi và nhiều khoá khác nữa. Cùng với luỹ tre làng là những ngôi nhà đất lợp rạ của người dân, là những bữa cơm chỉ có chút rau lá khoai lang nấu muối ǎn với chút cua đồng (muối mắm) còn tanh nồng, tuần vẫn phải đi học 6 buổi. Vẫn sợ giời thầy kiểm tra. Vẫn có điểm 4, điểm 5 và cả điểm 1, điểm 2 cùng với những lời nghiêm khắc của thầy cô giáo với những học trò lười.

Một chiều bom ném xuống làng Đại Lai

Ngày nay, nếu bạn tình cờ giở cuốn sổ lịch sử thị xã Thái Bình, hay cuốn biên niên sử của thị xã Phú Xuân chẳng hạn, có thể bạn sẽ đọc hấy câu: ngày ấy...tháng ấy...nǎm ấy. Giặc Mỹ xâm lược ném bom xuống làng Đại Lai gây ra thiệt hại: x...cháy nhà, y... người chết.. Mối thù này chúng ta không thể quên.

Có thể những điều ghi chép trên đúng cả. Rất chinh xác là đằng khác.

Còn tôi hàng trǎm đứa học trò thị xã. Lại hiển hiện lên trước mắt hình những cột khói bốc cao, lửa cháy đùng đùng, lốp đốp tiếng nổ của tre, nứa, lợn kêu, người la hét. Những đứa trẻ con 16, 17 tuổi là chúng tôi ngày ấy đã biết cùng với nhiều thầy cô giáo, cùng với dân làng Đại Lai, Thắng Cựu lao vào dập lửa. Và lôi ra từ trong đống tro cháy những xác người cháy đen.

Đêm ấy đám học trò trọ học không ngủ. ám ảnh về những cái chết. Về những hồn ma. Về cái nhà thầy có dạy rằng: đố là cái ác bằng xương bằng thịt tượng hình, chứ không phaỉu mượn ở đâu có, biện dẫn bằng sách vở.

Cũng đêm ấy, có đứa vạch tay lấy máu mình viết đơn xin nhập ngũ: nhiều lá đơn thống thiết. Đã có đứa được toại nguyện... Và nhiều đứa tuổi quân chưa đến. Tức ấm ức nhưng cái sứa trẻ Phù Đổng lại chưa có. Những buổi học tiếp tục diễn ra trong tiếng gào rít của máy bay.

Vào mỗi chiều thứ bảy chúng tôi phải "khǎn gói gió đưa về" nơi gia đình sơ tán để xin ít lon gạo, chút tiền ... học. Đưvs theo con đường đất lên Búng Chành. Đứa theo lộ 223 về Tống Vǎn, Tống Vũ, Đồng Mây, Đồng Vàng. Đứa thì đi học theo con sông Phúc Khánh, bǎng qua những vạt nhà bị bom còn nhem nhẻm ở đầu làng Đại Lai về Sam, Cầu Đen.

Những kỷ niệm của thuở ấu thơ bao giờ cũng là một dáu ấn đẹp, àm hành trang cho mỗi con người bước vào đời.

 

Một buổi sáng hè - 1968, 26 đứa học trò vừa tốt nghiệp của hia lớp 10A, 10B nhận được giấy báo nhập ngũ, lên đường. Trước chúng tôi, đã có nhiều đợt học trò của trường PT cấp 3 thị xã nhận được giấy báo nhập ntũ như vậy.

Nơi tập trung là khu bệnh viện đa khoa đã bỏ đi sơ tán từ lâu. Hàng trǎm người đến tiễn đua đại đội binh của thị xã Thái Bình lên đường.Đám học trò mặt búng ra sữa bị lọt thỏm giữa những anh cán bộ, công nhân, viên chức, nông dân.

Đám con trai hai lớp 10 A, 10B rủ nhau đi tiễn bạn. Chúng tôi giã từ mái trường, giã từ từng ngôi nhà, góc phố bằng một buổi chiều nắng chói chang và cuộc hành quân đi bộ mở đầu cho hàng ngàn cây số về sau, bǎng qua thị xã hoang tàn đổ nát.

SôngTrà Lý đang kỳ con nước lớn. Dòng sông ối đỏ mùi bùn đất phù sa. Qua câu cầu Bo có những nhịp uốn cong như những vùng rǎng lược, đã bvị bom Mỹ chặt gẫy. Cây cầu Phao bệnh bênh trên sóng.

26 chàng trai trẻ ấy, đã có nhiều người ngã xuống trên vành đai đất Huế, đó là Đỗ Hồng Thắng, Tý "Bẹp", Nam "mực", Chiến 'Kỳ Bá", Thàng, Nguyễn Minh Hiển (khoá 65-67) Sơn "Đông ky Sốt"... và nhiều bạn bè khác nữa. Trong chiến tranh có bao nhiêu tình huống thì cũng có bây nhiêu cái chết.

Tất cả những người anh hùng vô danh ấy, đều đã nằm lại với đất đai, cây cỏ ở một vùng giáp ranh đầy hiểm nguy và khốc liệt.

Đá núi và lớp đất sỏi đắp lên những ngôi mộ giấu kín trong tán cây rừng, ẩn khuất trong lau lách, hay trên những cánh đồng ngập nước vào mùa mưa xứ Huế. ở đây cứ mỗi độ thu sang trên các triền trồi trọc, dưới thung lũng vào mùa lau trổ bông chỉ bát ngát mêng mông trắng một màu.

 

Đã nhiều lần tôi ghé thǎm trường cũ. Nay trường đã mang tên nhà bác học Lê Quý Đôn. Đã mọc thêm nhiều dãy nhà tầng mới. Tôi như người khách lạ đi vơ vẩn trong trường nhìn các học trò hồn nhiên vô tư. Trò chơi của đám trẻ ngày nay cũng đã khác. Quần áo ǎn mặc đẹp, sang. Phất phới đôi tà áo dài, vectông... chỉ có tiếng trống trườnghơn 40 nǎm ny vẫn thế. Âm vang lúc gọi hối hả. Nỗi lo của đưa trẻ, niềm vui, hồi hộp chờ đợi của đứa trẻ khác.

Như thể hiện ra trước mắt tôi những gương mặt bạn bè một thuở, hàng chục đứa mặt nhễ nhại mồ hôi, đuổi theo quả bóng cao su. Bác Phôn tay cầm đùi trống tay lững thững ra cổng trường. Các thầy, cô giáo tất tả đến phòng hội đồng để vào tiết học đầu... Những người thầy, người cô của chúng tôi nǎm ấy, nay đã nhiều người thành người thiên cổ; người tứ tán trên các nẻo đường của Tổ quốc để đào tạo ra thế hệ học trò. Và không ít người trụ bám ở lại đối với một ngôi trường mang nhiều kỷ niệm.

Đã qua bạo "chuyến đò" ? Tooi giật mình khi nhìn thấy con số 1084 học trò trường Phổ thông cấp III thị xã đã trở thành những người lính vệ quốc trong cuộc trường chinh chống Mỹ 21 nǎm. Liệu còn mấy người được niềm vui may mắn như tôi trở lại trường xưa, lặng ngắm những mái ngói rêu phong, hàng cây ngày xưa chúng tôi trồng nay trở thành cây cổ thụ trong đêm xuân này.

Đỗ Kim Công