Cô
giáo của tôi - Một cuộc đời, một tình yêu
Nǎm
1981, tôi được vào thẳng lớp 10H trường PTTH Chu Vǎn An (Hà Nội). Sau ngày
khai giảng là buổi học môn vǎn đầu tiên của lớp tôi. Trường mới, lớp mới,
thầy cô giáo mới, chúng tôi náo nức muốn biết ai sẽ dạy vǎn lớp mình.
Trống vào tết học đã điểm, cả lớp yên lặng ngồi chờ đợi, chờ
mãi...khoảng 15 phút mới thấy 1 cô giáo dã nhiều tuổi, tóc bạc, vừa ôm
ngực, mặt nhǎn lại vì thở dốc, bước vào. Cả lớp đứng lên chào, pha chút
lo lắng cho sức khoẻ của cô. Cô giáo im lặng giơ tay ra hiệu cho chúng tôi
ngồi xuống, và giờ học vǎn của lớp tôi bắt đầu. Sau này tôi mới biết cô
bị ung thư, đã cắt một bên ngực, cánh tay trái phù to gấp đôi cánh tay
phải do bị chèn mạch máu.
Đó là cô giáo - người mẹ thứ hai của
tôi: cô Vũ Bội Trâm, giáo viên dạy giỏi cấp thành phố. Lớp tôi là lớp
cuối cùng trong cuộc đời đi dạy của cô: nǎm 1984, vì sức khoẻ quá yếu, cô
đã xin nghỉ hưu, khi ấy tôi học lớp 12.
Ngày ấy, cô phát hiện ra khả nǎmg vǎn học
của tôi trong lúc tôi được chọn đi thi học sinh giỏi toàn thành phố. Cô
bảo tôi về nhà cô sau buổi học, một cǎn nhà nhỏ bé đằng sau trường Chu
Vǎn An quay ra mặt Hồ Tây gợn sóng. Trong nhà đồ đạc đơn sơ, tối om, duy
chỉ có một bông hồng nhung cắm trong chiếc ly thuỷ tinh để trên bàn là sáng
nhất. Cô đưa bài tập làm vǎn tôi mới làm và nói vǎn của em như một cây
gỗ xù xì giữa rừng già, chẳng chau chuốt như ngọc, không mềm ướt như rêu,
nhưng lại rất tự nhiên, cô thích. Rồi dần dần cô đưa tôi vào thế giới
vǎn học diệu kỳ. Mỗi giờ giảng của cô cả lớp im phǎng phắc, vừa bị lôi
cuốn vì kiến thức uyên bác của cô, vừa vì thương cô yếu quá không nói to
được. Nhờ cô mà bài vǎn thi học ký I nǎm đó tôi đã đạt điểm 10
"trần thế" - như cách gọi của cô, bởi lẽ khi ấy theo quy định bài
vǎn muốn đạt điểm tối đa phải thông qua cả tổ bộ môn nhất trí. Thầy Hoãn
(hiện là giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội) cùng cô đã thuyết phục tôi dự kỳ thi
học sinh giỏi vǎn thành phố, vì hai nǎm rồi trường Chu Vǎn An chưa giật giải
môn vǎn. Trong suốt thời gian chuẩn bị, tôi thường xuyên về nhà để cô bồi
dưỡng thêm. Cô không gò ép tôi vào một chương trình nhất định mà cho tôi
các loại đề tài hoặc tôi tự chọn, hoặc do cô giao để tôi tự do thử sức.
Tôi còn nhớ có lần cô bảo tôi đọc thật kỹ Truyện Kiều và chọn đoạn nào
mà tôi thấy tâm đắc nhất, xúc động nhất, nghĩ gì cứ viết hết ra để cô
xem. Khi ấy tôi chỉ là cô bé 15 tuổi, sao hiểu cuộc đời mà bình luận Nguyễn
Du! Sau một tuần im lặng, tôi thú thật với cô: khó quá. Cô động viên, gợi
ý: "Em cứ đọc lại lần nữa, hãy thử mình là Kiều trong một đoạn nào
đó và viết đi em".
Cuối cùng tôi đã chọn:
Tiếc thay một đoá trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về.
Cô đọc xong khẽ bảo: "Cô sợ sau này
con khổ". Lần đầu tiên cô gọi tôi là con. Còn tôi đã xem cô như
người mẹ thứ hai của mình từ lâu rồi. Nǎm đó và nǎm sau nữa, tôi đã
giật giải môn vǎn về cho trường.
Cô nghỉ hưu nhưng tôi vẫn thường xuyên
tới thǎm cô sau những giờ phút nghỉ giữa tiết học. Và con đường học hành
của tôi cũng thông suốt: tôi đỗ đại học điểm cao, được đi học ở Liên
Xô (cũ). Có lẽ khi ấy tôi là học sinh duy nhất thi khối D mà không hề học
thêm môn vǎn tại các lò luyện thi. Cô đã dạy chúng tôi biết bao điều, đã
hình thành nhân cách cho chúng tôi không chỉ qua những tiết giảng trên lớp
mà bằng chính những tấm lòng, tâm hồn và cách sống của mình. Cuộc đời đi
học 18 nǎm của tôi được biết bao thầy cô giáo dạy bảo nhưng có lẽ cô
Trâm là người mà tôi gắn bó yêu thương và kính trọng nhất. Học trò của
ông đã có người lên chức ông bà, nhưng trở về bên cô vẫn lễ phép như
các cô cậu học trò nhỏ ngày nào. Trong số họ có người đã thành đạt như
anh Trương Gia Bình - tổng giám đốc FPT, và có những người bình thường như
tôi- một nhân viên của Công ty nước giải khát IBC, chúng tôi vẫn tự hào có
chung một điểm: là học trò của cô giáo Vũ Bội Trâm.
Hè nǎm 1989, tôi từ Liên Xô về phép, việc
đầu tiên của tôi là đến thǎm cô. Cǎn nhà nhỏ nǎm xưa đã cơi nới thêm
ra phía Hồ Tây một chòi gỗ xinh xinh.
Tôi đến đúng lúc chú Quán - nhà thơ
Phùng Quán - bạn đời của cô, đang mở tiệc chiêu đãi mấy ông bạn thơ từ
Huế ra chơi. Cô già đi nhiều nhưng nét mặt thật hạnh phúc. Cô đưa tôi lên
cái chòi nhỏ ấy, giới thiệu: "Đây là con gái yêu của tôi học trò nhỏ
nǎm xưa". Cú Quán kéo hai cô trò ngồi xuống mâm, bảo tôi đọc thơ
Puskin bằng tiếng Nga cho mọi người nghe...Tôi vui cùng cô chú nhưng lòng lại
thương cô vô hạn. Tôi còn nhớ như in câu chuyện cô thủ thỉ kể cho tôi khi
chỉ có hai cô trò về mối tình của cô với chủ Quán, những khó khǎn gian
truân mà cô phải trải qua. Cô khóc khi nói với tôi: "Cô có hạnh phúc
được làm vợ, làm mẹ, làm bà nhưng chưa bao giờ có hạnh phúc được làm
cô dâu", vì khi đó gia đình cô cấm đoán không cho yêu chú, chú cũng
van nài cô đừng yêu chú vì sợ cô khổ, nhưng chẳng có gì cản trở được
tìn yêu của cô đối với ông thi sĩ nghèo ấy. Cô đã theo chú từ ngày đó
đến chọn đời. Nhìn giọt nước mắt cô, tôi như thấy cả một sự nồng nàn
hương gió hồ, hương sen và hương đất trời của đêm tân hôn trong chiếc
lều vịt chỉ kê đủ hai cái chõng: một cái dành cho bà mẹ nuôi của chú, một
cái dành cho đôi vợ chồng trẻ. Cô cười trong nước mắt bảo tôi: "ấy
thế mà cô vẫn sinh được chị Quyên và anh Quân đấy con ạ". Cả cuộc
đời cô là sự hy sinh vô bờ bến, khổ cả về vật chất lẫn tinh thần, có lẽ
vì vậy mà các bài giảng vǎn của cô hay đến thế.
Viết về cô có lẽ cần cả một thiên tiểu
thuyết, nhưng trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ muốn giới thiệu sơ lược
với các bạn: cô giáo của tôi - một cuộc đời, một tình yêu. Tôi lại được
chọn một đề tài mà ngày xưa cô thường luyện tập làm vǎn cho tôi và tôi
chọn đề tài: Thầy tôi.
Đỗ Hoàng Yến
|