Thǎm trường đại học đầu tiên của đất nước
"Tôi
ngạc nhiên, giật mình khi thǎm Quốc Tử Giám và xem xét kỹ thấy trường đại
học này thành lập từ thế kỷ 11. Trước đây trên thế giới, trường đại học
được suy tôn là lâu đời nhất có truyền thống nhất là Université de Pari.
Tuy nhiên đại học này chỉ được lập ra từ thế kỷ 12 (1200)". Nhà
nghiên cứu bác học Pháp A.Bôniphát nói với tôi như vậy trong một lần gặp
ngẫu nhiên khi ông đang đọc một trong số 82 bia đá còn tôi thì chụp ảnh ở
Quốc Tử Giám. Có chân trong ban biên tập nhiều bách khoa toàn thư, là tác
giả nhiều nghiên cứu về vǎn hoá phương Đông lại đọc thông chữ Nôm chữ
Hán ông trần lực ra "điều tra lai lịch của trường đại học lâu đời
nhất thế giới này". Ông muốn đến đích chân lý hay xem có gì sai
khi có một ĐH ở một nước phương đông lại có sớm hơn Université de Pari
đến 124 nǎm. Mà có lẽ cả hai lý do.
Ông xin lục tìm tra cứu và
chỉ thật sự bị thuyết phục khi các ghi chép của ông bằng vi tính quá đầy,
khi các vật chứng - thứ bằng gỗ, cái bằng gốm, vật bằng đá, ngồn ngộn hiện
ra trong ảnh ông chụp. Quả nhiên chính vua Lý Thánh Tông đã cho dựng Vǎn
Miếu vào tháng 8 nǎm Canh Tuất (tức tháng 10 nǎm 1070). Lúc đầu đây là nơi
biểu dương Nho giáo và đạo học nói chung. 6 nǎm qua vua Lý cho xây nhà Quốc
Tử Giám ở sau Vǎn Miếu tức là trường ĐH đầu tiên của nước ta. Ban đầu
là nơi học của các hoàng tử, đến đời Trần đổi tên là Viện quốc học,
dạy con em quan lại trong triều và dần mở rộng ra nhận cả những học trò giỏi
trong thiên hạ. Đời Lê gọi là nhà Thái Học.
Việc học hành, khoa cử thời
xưa có nhiều qui định, nội dung chặt chẽ. 6, 7 tuổi trẻ bắt đầu học gọi là
Sơ học, học sách vở học vấn tâm, Tam tự kinh, Tứ tự kinh, Ngũ ngôn và Tập
làm vǎn câu đối 2 chữ, 4 chữ. Chừng 10 tuổi trở lên học Ngũ kinh, lịch sử
Trung quốc, Việt Nam, tập làm vǎn câu đối 7, 8 chữ. Ngoài người hàng tộc,
con quan lại, nhà vua tự chọn những người tuấn tú cho vào học ở các trường
trong kinh và Quốc Tử Giám. Sau một thời gian học, lâu thông kinh sử học sinh
dự kỳ thi, đầu tiên là thi hương tức là kỳ thi của một tỉnh hoặc liên
tỉnh để chọn người vào các kỳ thi sau gọi là thi Hội, thi Đình.
Thi hội là kỳ thi quốc gia
dành cho những người đã kinh qua thi Hương và các giám sinh đã mãn khoá
Quốc Tử Giám. Thi Hội và thi Đình là cuộc kiểm tra đánh giá cao nhất đối
với các bậc tài nǎng của đất nước nên còn được mệnh danh là Đại Tỷ
(thì lớn) Đại khoa. Thi hội dần dà gồm 4 kỳ, người đỗ cả 4 kỳ được cấp
bằng tiến sĩ. Thi Đình còn gọi là Điện thí tức là thi tại sân vua, vua
thân hỏi bài. Thi Đình chỉ để xếp các loại tiến sĩ đã đỗ ở kỳ thi hội.
Khoa thi tiến sĩ mở đầu vào nǎm ất Mão (1075) đời Lý Nhân Tông và khoa kết
thúc vào nǎm Kỷ Mùi (1919) đời Nguyễn Khải Định.
Thi Hội và thi Đình diễn ra
trong khoảng 8 tháng: mùa xuân thi Hội đến mùa thu nǎm ấy thi Đình. Một vài
khoa đầu nhà Lý cho thi ám tả ở kỳ thứ nhất. Về sau, ở kỳ thứ nhất cho thí
sinh làm kinh nghĩa và kinh truyện; mỗi thứ một bài, mỗi bài từ 1000 chữ trở
lên.
Kỳ "thi đại học"
này đến nhà Hồ lại cho thi thêm kỳ thứ nǎm hỏi về toán. Dần dà theo Lê
Quý Đôn triều đình quy định mức điểm cho mỗi kỳ thi. Nguyên tắc chung là
mỗi kỳ thi phải qua 2 lần chấm sơ khảo và phúc khảo. Đủ điểm kỳ thi thứ
nhất mới được thi kỳ 2 rồi kỳ thứ 3 thứ 4 cũng theo luật đó.
Các tiến sĩ kỳ thi đại học
được vào thi Đình và được hưởng quyền vinh quy bái tổ.
Về tổ chức trường thi thì
một số khoa thi buổi đầu, số thí sinh còn ít ỏi thì việc thi được tổ chức
ở ngay trường Quốc Tử Giám. Ngày trước học sinh, thí sinh hoặc đi bộ hoặc
cưỡi ngựa, đi kiệu đều cảm thấy vinh dự hãnh diện khi đến khu Vǎn Miếu -
Quốc Tử Giám. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính được thiết kế rất đồ
sộ theo kiểu tam quan trên có chữ Vǎn Miếu Môn. Cửa giữa dành cho vua, quan
lại hoặc các bậc thầy đến giảng sách. Chính bước chân của nhà sư phạm
một vị quan cương trực - tự nghiệp quốc Tử Giám Chu Vǎn An đã nhiều lần qua
lại đây. Một lối đi xây bằng gạch ở giữa xuyên thẳng từ cửa đến nhà thờ
biểu tượng sự thống đạt chính trực của đạo học.
Sau Vǎn Miếu Môn mở ra một
khu rộng chính là các thí sinh ngày trước cắm lều ngồi thi ĐH. Với con mắt
tinh tường của nhà NC Bôniphat đã hỏi tôi:
- Hình như hai bên cái bể
thả hoa súng mới được xây sau này, giống như mái các nhà bia thì phải?
- Đúng như vậy
Ông tỏ ra tiếc vì nó biến
lệch cái cảm quan nơi học thi thành vườn hoa.
Đi tiếp, đường giữa dẫn ta
đến cổng "Đại Trung Môn" mở đầu cho khu thứ hai. Hai bên có hai
cổng nhỏ có ghi chữ mục tiêu lời chúc học hành "Thành Đức",
"Đại tài".
Một công trình đẹp, cao như
gác hai tầng phía trên được chạm trổ bằng gỗ đã hiện ra phía sau. Đó là
Khuê Vǎn Các, gác vẻ đẹp của sao Khuê, sao biểu tượng về vǎn học. Công
trình này được xây dựng vào đầu thế kỷ 19.
Khu thứ 3 là từ gác Khuê Vǎn
tới một cổng xây cao to hơn cổng trước trên có hàng chữ Đại Thành Môn.
Cái đẹp trong kiến trúc cổ của cha ông ta xưa cũng thể hiện ở đây: trước
một khu thờ kính cẩn đền, đình có một hồ bán nguyệt. Giữa khu thứ ba này
có một hồ vuông mang một tên đẹp: Thiền Quang Tỉnh (giếng trời trong sáng).
Trong làn nước có tường hoa bao quanh tạo cho người học ngày trước và khách
tham quan ngày nay một cảm giác trong sáng, thư thái, thường in bóng gác Vǎn,
cây xanh lung linh.
Hai bên hồ là 2 khu vườn bia
dựng những bia đá lớn cao bằng người đặt trên những chú rùa bằng đá
khổng lồ. Có tất cả 82 bia ghi tên các vị tiến sĩ đã đỗ đại học trong 82
khoa thi. Trân trọng, tỉ mẩn đọc ta có thể thấy tên một số nhà chính trị,
vǎn học sử học nổi tiếng như Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Nhậm, Lê Quí Đôn, toán
học Lương Thế Vinh, ông tổ nghề in Lương Như Hộc.
Từ các nhà Lý, Trần, Hồ, Lê
sơ, Mạc, Hậu Lê đến Nguyễn tổng cộng 185 khoa thi 2906 lần người đỗ trong
đó có 56 trạng nguyên. Dù gội qua nhiều mưa nắng, tên của những "sinh
viên đại học" đỗ đạt vẫn im chìm sâu trên nền đá bia. Vừa lần đọc,
nhà NC Bôniphat chợt đặt một câu hỏi:
- Tôi có cảm giác tên của
một vài tiến sĩ bị đục khỏi bia chứ không phải do đá bị nứt hỏng.
- Nhận xét của ông rất
chuẩn. Theo quy định của các triều vua nếu người nào đã được ghi danh bia
đá mà khi phạm các tội tham nhũng bất trung, bất hiếu mà luật xưa gọi hình
ảnh là "vì béo mình gây người" tên đều có thể bị đục đi.
Bước qua Đại Thành Môn một
khung cảnh khoáng đạt ấn tượng mở ra từ khoảng sân rất rộng lát gạch bát.
Bên tả, hữu là 2 dãy nhà tả vu, hữu vu vốn dùng làm nơi thờ các danh nho
như: Chu vǎn An, Trương Hán Siêu. Cuối sân là nhà đại bái và hậu cung. Tại
đây có một số hiện vật quý: bên trái treo "Bích Ung đại chuông"
(chuông lớn của nhà Giám), bên phải có một chiếc khánh đá. Chuông Bích Ung
do Nguyễn Nghiêm đứng ra đúc nǎm 1768. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ
Xương, mặt ngoài khắc bài minh viết kiểu chữ lệ nói về công dung loại nhạc
khí này.
Sau khu đại bái chính là
trường Giám cũ. Nhiều triều đại đã thấy "Thức giả là nguyên khí của
quốc gia" nên đã tuyển chọn nhiều người tài giỏi, đỗ đạt cao, bổ xung
vào các chức Thị độc, Thi giảng, Hữu tư giảng, Tả tư giảng, Thiếu phó,
Thiếu bảo để chǎm lo việc giảng dạy vừa giúp vua giải đáp, nâng cao tri
thức mọi mặt. Nhiều "người thầy một đời, muôn đời" như Bùi Quốc
Khải, Nguyễn Trực, Chu Vǎn An...đã từng vang tiếng giảng ở Quốc Tử Giám. Khi
nhà Nguyễn dời trường này vàoHuế thì nơi đây chuyển làm đền Khải Thánh.
Nǎm 46 - 47 giặc Pháp đã đốt trụi khu này.
Trả lời câu hỏi về hoạt
động số khách đến tham quan Vǎn Miếu, giám đốc Nguyễn Quang Lộc cho biết:
- Với cấu trúc độc đáo,
tiếng tǎm Vǎn Miếu - Quốc Tử Giám đã ngày càng thu hút nhiều khách tham
quan, nghiên cứu. Nǎm 95 có 142.000 lượt người trong đó có 82.000 kháck nước
ngoài. Nǎm 96 đã tǎng lên 172.000 và 80.000, dự kiến nǎm 97 sẽ lên 200.000
khách. Khả nǎng mỗi nǎm thu được 1 tỷ đồng.
Đặc biệt tại đây có nhiều
hoạt động vǎn hoá giáo dục mới đó là một hôi thảo khoa học, kỉ niệm danh
nhân vǎn hoá, lễ hội vǎn hoá dân gian, tổ chức lễ tốt nghiệp v.v.
- Nghe nói nhà nước và thành
phố có một kế hoạch tồn tạo xây dựng khá lớn khu di tích Vǎn Miếu?
- Từ 91 - 96 Bộ Vǎn hoá và
UBND thành phố đã đầu tư 7 tỉ để tôn tạo trường bao, điện Đại Thành,
hệ thống đường đi, thoát nước, làm mái 8 nhà bia - GĐ Nguyên Quang Lộc
nói.
Từ nay đến nǎm 2000 sẽ dựng
lại khu Thái học, dự chi 17 tỉ. Hồ Vǎn phía trước đang bị lấn chiếm sẽ
được giải toả, cạp lại.
Chắc tới đó khu di tích sẽ
có lại diện mạo của một trong những đại học ra đời sớm nhất thế giới, một
địa điểm tham quan nổi tiếng, một trung tâm hoạt động vǎn hoá - khoa học
tầm cỡ.
Giang Hà Vị
|